Tiến sĩ Võ Văn Chi, tác kém chất lượng từ điển Cây thuốc Việt Nam cho biết táo còn gọi là táo ta, táo chua. Tên công nghệ là Ziziphus mauritiana Lam, thuộc họ táo ta Rhamnaceae.
Đây là cái cây nhỡ, cành thòng xuống khi còn non mang lông, sau nhẵn màu xám đen, với gai. Lá hình bầu dục hay trái xoan, mặt trên màu lục đậm và nhẵn, mặt dưới với lông dày mềm màu hung, mép khía răng, 3 gân gốc. Hoa thành xim ở nách lá, cánh hoa màu trắng nhạt, mang móng hẹp. Quả hạch hình cầu có vỏ nhẵn, khi non màu xanh, khi chín khá vàng, vỏ quả giữa vị ngọt, tương đối chua. Quả sở hữu 1 hạch cứng sù sì, trong chứa một hạt dẹt (táo nhân).
Loài thực vật này với nguyên nhân trong khoảng vùng cổ nhiệt đới (Phi châu). Cây mọc nhanh, tái sinh khỏe, được trồng trong khoảng vùng rẻ đến cao. Ra hoa vào tháng 6 tới 12, có quả trong khoảng tháng 10 tới tháng 3 năm sau. Thường táo ra hoa kết quả hầu như quành năm. Cây này được sắm thấy phổ quát ở Việt Nam và các xứ nóng ở châu Phi, Ả Rập, Ấn Độ, Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác.
>>>>tra giao co lam
Đông y sử dụng vỏ thân táo để khiến cho thuốc. Thu hái vào mùa thu, chiếc bỏ vỏ ngoài, phơi khô. Cây có vị ngọt, hơi đắng, tính bình, tác dụng tiêu viêm, sinh cơ, tiêu dùng để trị bỏng cháy. Cũng có thể ngâm mang rượu từ 50% đến 60%, tiêu dùng bôi ngoài.
Phân tích thành phần dược lý cho thđó vỏ cây táo đựng mauritin A, mauritin B, amphiline D và frangufoline, ngoài ra còn sở hữu axit betulinic. Thuốc sắc lá và thân táo ta có tác dụng hưng phấn rõ rệt đối có tử cung chuột to nuôi tách bày, mang thể làm cho giãn mạch máu ở chuột lớn trong thử nghiệm dẫn lưu chi sau. Có thể dùng thuốc này để gây mê và hạ huyết áp cho chó bằng đường tiêm tĩnh mạch.
tấn sĩ Võ Văn Chi giới thiệu một số bài thuốc từ cây táo như sau:
Trị bỏng lửa, bỏng nước sôi
Vỏ cây táo ngâm vào rượu từ 50 tới 60 độ cồn rồi cái lấy dịch bôi vào chỗ thương tổn, ngày 4 lần. Sau khi lớp bôi trước khô thì bôi tiếp. trong khoảng ngày thứ hai trở đi chỉ bôi mỗi ngày càng lần. không cần băng bó vết bỏng (theo Trung dược đại từ điển).
Bằng huyết, lậu huyết (rong huyết)
Lấy vỏ cây táo và hạt rang vàng hạ thổ. Đổ nước sắc thật đặc, uống 3 lần (theo tuyển tập Kinh nghiệm chữa bệnh bằng Đông y - Hội Đông y Nghệ Tĩnh).
Đây là cái cây nhỡ, cành thòng xuống khi còn non mang lông, sau nhẵn màu xám đen, với gai. Lá hình bầu dục hay trái xoan, mặt trên màu lục đậm và nhẵn, mặt dưới với lông dày mềm màu hung, mép khía răng, 3 gân gốc. Hoa thành xim ở nách lá, cánh hoa màu trắng nhạt, mang móng hẹp. Quả hạch hình cầu có vỏ nhẵn, khi non màu xanh, khi chín khá vàng, vỏ quả giữa vị ngọt, tương đối chua. Quả sở hữu 1 hạch cứng sù sì, trong chứa một hạt dẹt (táo nhân).
Loài thực vật này với nguyên nhân trong khoảng vùng cổ nhiệt đới (Phi châu). Cây mọc nhanh, tái sinh khỏe, được trồng trong khoảng vùng rẻ đến cao. Ra hoa vào tháng 6 tới 12, có quả trong khoảng tháng 10 tới tháng 3 năm sau. Thường táo ra hoa kết quả hầu như quành năm. Cây này được sắm thấy phổ quát ở Việt Nam và các xứ nóng ở châu Phi, Ả Rập, Ấn Độ, Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác.
>>>>tra giao co lam
Đông y sử dụng vỏ thân táo để khiến cho thuốc. Thu hái vào mùa thu, chiếc bỏ vỏ ngoài, phơi khô. Cây có vị ngọt, hơi đắng, tính bình, tác dụng tiêu viêm, sinh cơ, tiêu dùng để trị bỏng cháy. Cũng có thể ngâm mang rượu từ 50% đến 60%, tiêu dùng bôi ngoài.
Phân tích thành phần dược lý cho thđó vỏ cây táo đựng mauritin A, mauritin B, amphiline D và frangufoline, ngoài ra còn sở hữu axit betulinic. Thuốc sắc lá và thân táo ta có tác dụng hưng phấn rõ rệt đối có tử cung chuột to nuôi tách bày, mang thể làm cho giãn mạch máu ở chuột lớn trong thử nghiệm dẫn lưu chi sau. Có thể dùng thuốc này để gây mê và hạ huyết áp cho chó bằng đường tiêm tĩnh mạch.
tấn sĩ Võ Văn Chi giới thiệu một số bài thuốc từ cây táo như sau:
Trị bỏng lửa, bỏng nước sôi
Vỏ cây táo ngâm vào rượu từ 50 tới 60 độ cồn rồi cái lấy dịch bôi vào chỗ thương tổn, ngày 4 lần. Sau khi lớp bôi trước khô thì bôi tiếp. trong khoảng ngày thứ hai trở đi chỉ bôi mỗi ngày càng lần. không cần băng bó vết bỏng (theo Trung dược đại từ điển).
Bằng huyết, lậu huyết (rong huyết)
Lấy vỏ cây táo và hạt rang vàng hạ thổ. Đổ nước sắc thật đặc, uống 3 lần (theo tuyển tập Kinh nghiệm chữa bệnh bằng Đông y - Hội Đông y Nghệ Tĩnh).